Kinh tế Bỉ

Bài chi tiết: Kinh tế Bỉ
Trung tâm lịch sử của thành phố Brugge là một di sản thế giới UNESCO

Nền kinh tế có tính toàn cầu mạnh mẽ[83] và hạ tầng giao thông của Bỉ được tích hợp với phần còn lại của châu Âu. Bỉ có vị trí nằm tại trung tâm của một khu vực công nghiệp hoá cao độ, giúp quốc gia này đứng thứ 15 thế giới về xuất nhập khẩu vào năm 2007.[84][85] Kinh tế Bỉ có đặc điểm là lực lượng lao động năng suất cao, tổng sản lượng quốc gia (GNP) cao và xuất khẩu bình quân ở mức cao.[86] Các mặt hàng nhập khẩu chính của Bỉ là nguyên liệu thô, máy móc và thiết bị, hoá chất, kim cương thô, dược phẩm, thực phẩm, thiết bị giao thông và sản phẩm dầu. Các mặt hàng xuất khẩu chính của Bỉ là máy móc và thiết bị, hoá chất, kim cương gia công, kim loại và các sản phẩm kim loại, cùng thực phẩm.[30]

Kinh tế Bỉ có định hướng dịch vụ mạnh mẽ, và thể hiện tính chất kép: Kinh tế Vlaanderen năng động còn kinh tế Wallonie bị tụt hậu.[11][87] Với tư cách là một thành viên sáng lập của Liên minh châu Âu, Bỉ ủng hộ mạnh mẽ đối với kinh tế mở và mở rộng quyền lực của các thể chế EU nhằm tích hợp các nền kinh tế thành viên. Từ năm 1922, thông qua Liên minh Kinh tế Bỉ-Luxembourg, Bỉ và Luxembourg có một thị trường mậu dịch duy nhất với liên minh thuế quan và tiền tệ.[88]

Bỉ là quốc gia đầu tiên tại châu Âu lục địa trải qua cách mạng công nghiệp, đó là vào đầu thế kỷ XIX.[89] LiègeCharleroi nhanh chóng phát triển ngành khai mỏ và sản xuất thép, các ngành này phát đạt cho đến giữa thế kỷ XX tại thung lũng sông Sambre và Meuse và khiến Bỉ nằm trong nhóm ba quốc gia có mức độ công nghiệp hoá lớn nhất trên thế giới từ năm 1830 đến năm 1910.[90][91] Tuy nhiên, đến thập niên 1840 thì ngành dệt của Vlaanderen lâm vào khủng hoảng nghiêm trọng, và vùng này trải qua nạn đói từ năm 1846 đến năm 1850.[92][93]

Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, các ngành hoá chất và dầu mỏ được mở rộng nhanh chóng tại GentAntwerpen. Các cuộc khủng hoảng dầu mỏ vào năm 1973 và 1979 khiến kinh tế lâm vào một cuộc suy thoái; giai đoạn này đặc biệt kéo dài tại Wallonie, ngành thép trong vùng này trở nên kém cạnh tranh và phải trải qua sụt giảm nghiêm trọng.[94] Trong các thập niên 1980 và 1990, trung tâm kinh tế của quốc gia tiếp tục chuyển về phía bắc và hiện tập trung tại khu vực Kim cương Vlaanderen (Vlaamse Ruit) đông dân.[95]

Sản xuất thép dọc sông Meuse tại Ougrée, gần Liège

Đến cuối thập niên 1980, các chính sách kinh tế vĩ mô của Bỉ dẫn đến nợ chính phủ luỹ tích đạt khoảng 120% GDP. Năm 2006, ngân sách được cân bằng và nợ công ngang với 90,3% GDP.[96] Năm 2005 và 2006, mức tăng trưởng GDP thực lần lượt là 1,5% và 3,0%, cao hơn một chút khu vực đồng euro. Tỷ lệ thất nghiệp là 8,4% vào năm 2005 và 8,2% vào năm 2016, gần với trung bình khu vực. Đến tháng 10 năm 2010, tỷ lệ này tăng lên 8,5% trong khi mức trung bình của Liên minh châu Âu là 9,6%.[97][98] Từ năm 1832 đến năm 2002, đơn vị tiền tệ của Bỉ là franc Bỉ. Bỉ chuyển sang dùng đồng euro vào năm 2002.

Mặc dù suy giảm 18% từ năm 1970 đến năm 1999, song vào năm 1999 Bỉ vẫn có mạng lưới đường sắt dày đặc nhất trong Liên minh châu Âu với 11,38 km/1.000 km². Mặt khác, trong cùng giai đoạn này có sự phát triển lớn (+56%) về mạng lưới xa lộ. Năm 1999, Bỉ có 55,1 km xa lộ mỗi 1.000 km² và 16,5 km xa lộ mỗi 1.000 cư dân, cao hơn đáng kể các mức trung bình của Liên minh châu Âu là 13,7 và 15,9.[99]

Giao thông tại một số nơi tại Bỉ nằm vào hàng đông đúc nhất tại châu Âu. Vào năm 2010, người đến làm việc hàng ngày tại các thành phố Bruxelles và Antwerpen lần lượt phải mất 65 và 64 tiếng mỗi năm do tắc đường.[100] Giống như hầu hết các quốc gia nhỏ khác tại châu Âu, có trên 80% giao thông hàng không tại Bỉ là thông qua một sân bay duy nhất, sân bay Bruxelles. Các cảng Antwerpen và Zeebrugge (Brugge)]] chiếm hơn 80% giao thông hàng hải của Bỉ, Antwerpen là bến cảng lớn thứ nhì tại châu Âu với tổng khối lượng hàng hoá xử lý là 115.988.000 tấn vào năm 2000 sau khi tăng trưởng 10,9% trong suốt 5 năm trước đó.[99][101] Năm 2016, cảng Antwerpen xử lý 214 triệu tấn hàng hoá, tăng trưởng 2,7% so với năm trước.[102]

Tồn tại cách biệt lớn về kinh tế giữa Vlaanderen và Wallonie. Wallonie trong quá khứ từng thịnh vượng hơn so với Vlaanderen, hầu hết là do có các ngành công nghiệp nặng, song việc ngành thép sụt giảm sau Chiến tranh thế giới thứ hai khiến vùng này suy thoái nhanh chóng, trong khi Vlaanderen thì nổi lên nhanh chóng. Từ đó, Vlaanderen có kinh tế thịnh vượng, nằm trong các vùng giàu nhất châu Âu, trong khi Wallonie thì tiêu điều. Năm 2007, tỷ lệ thất nghiệp của Wallonie cao gấp đôi so với Vlaanderen. Phân chia này góp một phần quan trọng trong căng thẳng giữa hai vùng bên cạnh phân chia ngôn ngữ vốn có. Các phong trào ủng hộ độc lập giành được mức ủng hộ cao tại Vlaanderen là một kết quả của tình trạng này. Liên minh Vlaanderen Mới (N-VA) theo chủ nghĩa phân lập trở thành chính đảng lớn nhất tại Vlaanderen.[103][104][105]

Khoa học và kỹ thuật

Gerardus Mercator

Trong tiến trình lịch sử quốc gia, Bỉ luôn có các đóng góp cho sự phát triển của khoa học và kỹ thuật. Tây Âu trong thế kỷ XVI thời cận đại có bước phát triển mạnh về khoa học, trong đó Bỉ có nhà bản đồ học Gerardus Mercator, nhà giải phẫu học Andreas Vesalius, nhà y học thảo dược Rembert Dodoens[106][107][108][109] và nhà toán học Simon Stevin cùng các nhà khoa học nổi tiếng khác.[110]

Nhà hoá học Ernest Solvay[111] và kỹ sư Zenobe Gramme (École Industrielle de Liège)[112] lần lượt được đặt tên cho phương pháp Solvay và máy phát điện Gramme trong thập niên 1860. Bakelit được phát triển vào năm 1907–1909 bởi Leo Baekeland. Ernest Solvay cũng đóng vai trò là một nhà nhân đạo lớn và được đặt tên cho Viện Xã hội học Solvay, Trường Kinh tế và Quản trị Solvay Bruxelles, và Viện Vật lý và Hoá học Solvay Quốc tế, nay thuộc Đại học Tự do Bruxelles. Năm 1911, ông khởi đầu một loạt hội nghị, gọi là các hội nghị Solvay về vật lý và hoá học, chúng có tác động sâu sắc đến tiến triển của vật lý và hoá học lượng tử.[113] Một người Bỉ khác cũng có đóng góp lớn cho khoa học cơ bản là Georges Lemaître (Đại học Công giáo Leuven), ông có danh tiếng nhờ đề xuất thuyết Big Bang về nguồn gốc của vũ trụ vào năm 1927.[114]

Có ba cá nhân Bỉ từng được nhận giải Nobel về sinh lý học và y học, đó là Jules Bordet (Đại học Tự do Bruxelles) vào năm 1919, Corneille Heymans (Đại học Gent) vào năm 1938 và Albert Claude (Đại học Tự do Bruxelles) cùng với Christian de Duve (Đại học Công giáo Louvain) vào năm 1974. François Englert (Đại học Tự do Bruxelles) được trao giải Nobel vật lý vào năm 2013. Ilya Prigogine (Đại học Tự do Bruxelles) được trao giải Nobel hoá học vào năm 1977.[115] Hai nhà toán học Bỉ từng được được trao Huy chương Fields: Pierre Deligne vào năm 1978 và Jean Bourgain vào năm 1994.[116][117]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Bỉ http://www.abc.net.au/news/newsitems/200508/s14359... http://www.ulg.ac.be/cms/c_36320/photographies-fol... http://www.emploi.belgique.be/WorkArea/DownloadAss... http://www.Belgium.be/ http://www.belgium.be/en/about_belgium/country/bel... http://www.belgium.be/en/about_belgium/government/... http://www.belgium.be/en/about_belgium/government/... http://www.belgium.be/en/about_belgium/government/... http://www.belgium.be/en/about_belgium/government/... http://www.belgium.be/en/about_belgium/government/...